Tuy
nhiên, “bức tranh” không chỉ có màu hồng, bởi muốn tận dụng tốt cơ hội,
các DN trong ngành chế biến, XK gỗ còn nhiều việc phải làm, đặc biệt là
đảm bảo tính hợp pháp trong nguồn gốc gỗ nguyên liệu.
Tăng trưởng 10-15%/năm
Theo
nghiên cứu được công bố mới đây do Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam,
Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định, tổ chức Forest Trends và Hội Mỹ nghệ
và Chế biến gỗ TP.HCM phối hợp cùng thực hiện: Hoa Kỳ là thị trường XK
quan trọng nhất của ngành gỗ, với kim ngạch hàng năm lên tới trên 2 tỷ
USD, chiếm trên 30% trong tổng kim ngạch XK các mặt hàng gỗ của Việt
Nam. Hiện, kim ngạch XK các mặt hàng gỗ của Việt Nam vào thị trường này
tiếp tục được mở rộng, với mức tăng trưởng bình quân 10-15%/năm. Ông Tô
Xuân Phúc, tổ chức Forest Trends đánh giá: Đây là những tín hiệu khá
tích cực cho ngành chế biến gỗ XK của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh
kim ngạch XK các mặt hàng gỗ vào thị trường lớn EU có dấu hiệu chững
lại, thậm chí tụt giảm tại một số quốc gia thành viên trong khối.
Đi
sâu phân tích các mặt hàng có thể thấy: Hàng năm, Việt Nam XK khoảng 20
loại mặt hàng thuộc nhóm gỗ HS 44 sang Hoa Kỳ, với kim ngạch XK thu
được khoảng trên dưới 100 triệu USD, chiếm khoảng dưới 5% trong tổng kim
ngạch XK. Các mặt hàng thuộc nhóm sản phẩm gỗ HS 94 được XK sang Hoa Kỳ
đa dạng hơn nhiều so với các sản phẩm thuộc nhóm HS 44. Cụ thể, kim
ngạch XK đạt được từ nhóm sản phẩm gỗ HS 94 cao hơn khoảng 10 lần kim
ngạch của các mặt hàng nhóm gỗ HS 44, chiếm trên 95% trong tổng kim
ngạch XK các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ sang Hoa Kỳ. Điểm chung của các
mặt hàng XK này là, hầu hết các loài gỗ trong các sản phẩm XK là gỗ có
nguồn gốc từ NK từ các nguồn có tính hợp pháp rõ ràng như từ Hoa Kỳ, EU
và một số nước châu Mỹ La Tinh. Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm được
làm từ gỗ có nguồn gốc từ các khu vực rừng tự nhiên nhiệt đới.
Theo
ông Tô Xuân Phúc, việc Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP) được ký kết mà Việt Nam và Hoa Kỳ là thành viên tiếp
tục mở ra cơ hội hợp tác cho cả hai quốc gia trong thương mại gỗ trong
thời gian tới.
Tại
thị trường Nhật Bản, tình hình cũng khá khả quan khi tốc độ tăng trưởng
về kim ngạch XK gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong giai đoạn
2013-2015 đạt bình quân khoảng 13%/năm. Các mặt hàng XK quan trọng nhất
của Việt Nam vào Nhật Bản bao gồm dăm gỗ, đồ nội thất phòng ngủ, đồ gỗ
ngoài trời, ghế gỗ và đồ nội thất văn phòng.
Một
số chuyên gia nhìn nhận: Hiệp định TPP, trong đó Nhật Bản là một trong
những quốc gia thành viên sẽ tạo cơ hội lớn cho các DN ngành gỗ gia tăng
thị phần tiêu thụ các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ. Bên cạnh đó, những
thay đổi về chính sách có liên quan đến sản phẩm gỗ tại Nhật Bản gần đây
cũng đang tạo ra những cơ hội lớn cho ngành công nghiệp chế biến gỗ XK
của Việt Nam.
Đừng quá lạc quan
Mặc
dù nhìn nhận còn nhiều cơ hội thúc đẩy XK gỗ và sản phẩm gỗ sang thị
trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, tuy nhiên theo ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Tổng thư ký
Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ngành gỗ Việt không nên quá lạc quan.
“Hoa Kỳ là thị trường lớn nhưng phải nhìn rõ bản chất vấn đề vì sao XK
lại tăng. Thực tế là, những năm gần đây Hoa Kỳ đánh thuế chống bán phá
giá rất cao đối với các sản phẩm gỗ của Trung Quốc XK vào Hoa Kỳ nên
nhiều DN Trung Quốc đã dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam, tranh thủ cơ
hội XK. Ngoài ra, cũng phải nhấn mạnh rằng, XK sản phẩm gỗ sang Hoa Kỳ
nhiều quá cũng giống như bỏ nhiều trứng vào cùng một giỏ. Điều này có
thể khiến nảy sinh nguy cơ, một ngày nào đó Hoa Kỳ sẽ áp thuế chống bán
phá giá với gỗ Việt nhằm bảo vệ ngành gỗ trong nước”, ông Hoài nhấn
mạnh.
Bên
cạnh đó, theo các chuyên gia, Đạo luật Lacey của Hoa Kỳ có hiệu lực năm
2008 quy định các hoạt động buôn bán các sản phẩm gỗ được khai thác,
vận chuyển hoặc thương mại trái phép tại quốc gia XK vào Hoa Kỳ được coi
là hoạt động phạm pháp. Để tránh rủi ro về pháp lý trong việc tiêu thụ
các sản phẩm gỗ tại Hoa Kỳ, DN cần đảm bảo các sản phẩm gỗ, bao gồm cả
nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào là hợp pháp. Trong khi nguồn gỗ nguyên liệu
được NK từ các nước trong khối EU, Hoa Kỳ và Mỹ la tinh thông thường có
rủi ro rất thấp và đáp ứng được các yêu cầu về nguồn gỗ nguyên liệu từ
thị trường Hoa Kỳ thì các sản phẩm được làm từ các loài gỗ có nguồn gốc
từ các khu rừng nhiệt đới như căm xe, tếch, xà cừ được khai thác từ các
quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông lại khó có khả năng đáp ứng được
với các yêu cầu của Đạo luật Lacey. Đây là các rủi ro mà các DN trực
tiếp tham gia XK gỗ và sản phẩm gỗ nói riêng và cả ngành gỗ nói chung
phải đối mặt.
Tương
tự như vậy, ở thị trường Nhật Bản, Chính phủ Nhật bản cũng có những quy
định nhằm đảm bảo các sản phẩm gỗ được tiêu thụ tại thị trường này là
hợp pháp. Trên thực tế, các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam XK
sang Nhật Bản nhìn chung đều đáp ứng được các yêu cầu và quy định của
thị trường này. Tuy nhiên, hiện vẫn còn tồn tại một số vấn đề có liên
quan đến tính hợp pháp của nguồn gỗ nguyên liệu trong sản phẩm XK như
một số DN chưa khai báo nguồn gốc và loài gỗ sử dụng trong sản phẩm XK,
hoặc sử dụng một số loài gỗ từ các nguồn được cho là có tính rủi ro cao.
“Cơ
hội XK vào thị trường Nhật Bản không chỉ dành riêng cho DN Việt Nam mà
được chia đều cho DN của các quốc gia như Trung Quốc, EU, Malaysia,
Philippines… hiện đang trực tiếp tham gia vào thị trường Nhật Bản. Bên
cạnh đó, các DN của Việt Nam cũng phải cạnh tranh với các đối thủ tiềm
năng như Thái Lan và Myanmar. Điều này đòi hỏi các DN Việt Nam phải tiếp
tục duy trì hình ảnh sản phẩm gỗ hợp pháp, bền vững và đáng tin cậy khi
tham gia thị trường. Ngoài sự nỗ lực của bản thân DN, các hiệp hội gỗ
cần tiếp tục xác định những vấn đề cụ thể về cơ hội và rủi ro, từ đó đưa
ra các kiến nghị chính sách và các cơ chế cụ thể cho DN, đảm bảo sản
phẩm XK sang thị trường Nhật Bản sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ đầu vào
hợp pháp và bền vững”, ông Phúc đề xuất.
Theo Báo Công Thương Điện Tử